Vụ án Thái sư hóa hổ hại vua và những oan khuất thiên kỷ

Lumia Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Vụ án Thái sư hóa hổ hại vua, hay còn gọi là vụ án hồ dâ‌m Đàm (Hồ Tây) năm Bính Tý (1096) đã diễn ra cách đây 923 năm, song vẫn còn nhiều ẩn khuất do sử sách xưa ghi chép vắn tắt.
Vụ án Thái sư hóa hổ hại vua và những oan khuất thiên kỷ
Tượng thờ Thái sư Lê Văn Thịnh tại đền thờ thôn Bảo Tháp, làng Đông Cứu, Gia Bình, Bắc Ninh.

Xuất phát từ niềm tin vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho học giới nước nhà từ thế kỷ 11 không thể là người hại vua Lý Nhân Tông, trong cuốn Vụ án thái sư hóa hổ, Nxb Thanh niên (2017) tác giả Từ Khôi (bút danh của nhà báo Nguyễn Mạnh Thắng) cho biết, ông đã dành hàng thập kỷ nghiên cứu, đối chiếu sử sách, đi điền dã, thu thập dữ kiện, dịch thuật văn bia, sắc phong… để từng bước làm sáng tỏ những điểm còn mập mờ trong vụ án này.

Những cải cách lớn của Thái sư Lê Văn Thịnh

Theo Từ Khôi, sử sách chép về Lê Văn Thịnh rất ít và tuyệt nhiên không đả động đến đời tư (vợ, con) của ông. Theo ngọc phả, Lê Văn Thịnh sinh ngày 11 tháng 2 năm Canh Dần (1050) tại làng Gủ, thôn Bảo Tháp, trang Đông Cứu, lộ Bắc Giang. Thân phụ là ông Lê Văn Thành, một thầy lang giỏi, thân mẫu là bà Trần Thị Tín. Con đường học vấn của Lê Văn Thịnh rất thông, trôi chảy.

Tại kỳ thi Nho học năm Ất Mão (1075), kỳ thi Minh kinh bác học và nho học tam trường đầu tiên, ông đỗ đầu trong 10 người trúng tuyển. Thời điểm này, danh hiệu trạng nguyên chưa có, song các triều đại sau đều suy tôn ông là trạng nguyên đầu tiên. Ông được bổ chức Sư phó Nội cấp và trở thành thầy dạy vua Lý Nhân Tông. Tháng 12 năm 1075, ông được bổ chức Thị lang Bộ Binh và có những đóng góp nhất định trong việc bình Chiêm, phá Tống.

Sau cuộc chiến Việt - Tống năm 1076-1077, Thái úy Lý Thường Kiệt nguyện rời khỏi triều đình về Thanh Hóa trấn nhậm. Từ tháng Giêng năm 1078 đến tháng 6 năm 1883, vua Lý Nhân Tông cử phái bộ ngoại giao do Đào Nguyên Tông dẫn đầu sang Tống đàm phán về cương thổ, nhưng các cuộc thương thuyết đều không đi đến kết quả. Năm 1084, Lê Văn Thịnh được phong làm Chánh sứ đi giành lại cương thổ trên bàn ngoại giao. Với tài biện bác và khéo léo dùng luật của Tống để bẻ lại người Tống, ông đòi được đất của Tổ quốc đã mất về tay nhà Tống trước chiến tranh (6 huyện, 3 động, thuộc châu Quảng Nguyên, phần lớn thuộc đất Cao Bằng ngày nay).

Hồ dâ‌m Đàm (Hồ Tây) gắn liền với vụ án Thái sư hóa hổ hại vu năm 1096.

Tưởng thưởng công lao sau chuyến đi sứ, vua Lê Nhân Tông đã gia phong ông lên chức Thái sư. Ở trên cương vị này, ông đã có những cuộc cải cách lớn. Tháng 8 năm Bính Dần (1086), ông đề xuất mở kỳ thi nho học tuyển người hiền tài lần thứ 2. Tiếp đến, ông cho quy hoạch chùa thành 3 hạng là đại, trung và tiểu danh lam, đồng thời bổ các quan văn nho học kiêm chức làm đề cử trông coi các chùa. Năm 1089, ông tiến hành biện pháp cải cách bộ máy nhà nước. Các quan văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu cho gọn và hiệu quả với công việc. Năm 1092, ông còn cho xác định sổ ruộng của các làng xã, các hộ nông dân...

Vụ án Thái sư hóa hổ, oan khuất thiên kỷ của Lê Văn Thịnh

Vào năm Bính Tý (1096) giữa khi những cuộc cải cách của Thái sư Lê Văn Thịnh đang trên đà tiến triển thì đột nhiên xảy ra vụ án dâ‌m Đàm (Hồ Tây). Theo Từ Khôi, sử sách xưa không đưa ra những nghi án về vụ án này. Các sử liệu: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử lược, Việt Điện u linh, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Thiên Nam ngữ lục viết quá cô đọng, khó để đưa ra một sự giải đáp thuyết phục cho người đời sau.

Tượng rồng đá “miệng cắn thân, chân xé mình" đầy hàm ý tại đền Thái sư Lê Văn Thịnh.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: Bính Tý, Hội Phong năm thứ 5 (1096), mùa Xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phả, tha tội chết an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua ra hồ dâ‌m Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mây mù có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt nói: “Việc nguy rồi”! Người đánh cá là Mục Thận quăng lưới trùm lên con hổ , thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ là đại thần, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất Tây Hồ làm thực ấp, trước đấy gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan mưu chuyện thí nghịch. Sử thần Ngô Sỹ Liên nói: Kẻ làm tôi phạm tội giết vua cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin sùng đạo Phật.

Do sử liệu còn bất cập, nên để làm sáng tỏ vụ án, theo Từ Khôi cần phải xem xét lại các sự kiện chính diễn ra trước trong và sau thời gian Lê Văn Thịnh làm Thái sư.

Có một sự kiện rất đáng chú ý trong thời gian Lê Văn Thịnh làm Thái sư đó là việc vua Lý Nhân Tông phong Thiền sư Khổ Đầu Quốc là Quốc sư năm 1088. Việc bổ chức này khiến cho việc hành chính, nội trị sẽ được xử lý theo nhiều hướng khác nhau, giữa một bên là tư tưởng trị dân theo giềng mối của nho gia và một bên là lòng nhân từ bi của nhà phật.

Bên cạnh đó Từ Khôi cũng đặt ra những nghi vấn. Đầu tiên là Lê Văn Thịnh có băng đảng đứng sau không? Những âm mưu lớn, đặc biệt là chuyện đảo chính, giết vua cướp ngôi không thể là việc của một người mà thành. Trong các sử liệu viết về vụ án Lê Văn Thịnh chỉ nêu ông học thuật hóa hổ của tên gia nô họ Lý mà chẳng có bất cứ bè đảng thế lực nào đứng sau.

Mộ phần Thái sư Lê Văn Thịnh ở giữa cánh đồng Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Từ tháng 10 năm 1042, nhà Lý đã ban luật Hình thư. Tội mưu phản và tội mưu đại nghịch nằm trong Tội thập ác. Thời Lý, Trần và thời Lê, những phạm nhân phạm tội đại trọng như thế này thường bị tru di tam tộc, thậm chí cửu tộc. Thế nên, việc Lê Văn Thịnh chỉ bị đi đày với tội danh “hóa hổ” bản thân nó đã là một sự khó tin.

Trong thời gian Lê Văn Thịnh làm Thái sư, ông đã tiến hành cải cách ít nhiều gây tổn hại đến lợi ích của tầng lớp tăng lữ, quý tộc, thậm chí bị coi là hạn chế thế lực nhà chùa. Phải chăng vì những điều này mà có thế lực nào đó đã mượn tay của đạo lão mà Mục Thận đứng ra dựng màn kịch vụ án ở hồ dâ‌m Đàm.

Một dữ kiện nữa là kỳ thi nho học lần thứ 2 do Lê Văn Thịnh đề xuất năm diễn ra năm 1086, nhưng kỳ thi thứ 3 phải tận tới năm 1152 mới diễn ra. Tại sao có chuyện này. Phải chăng có một sự áp chế nho học ở đây.

Từ Khôi cho rằng, xem xét kỹ các nghi vấn về vụ án, thì nghi vấn mâu thuẫn ý thức nho - phật là thuyết phục hơn cả. Vào một khoảnh khắc của lịch sử, khi nho giáo mới bắt đầu xây dựng nền móng của mình mà đã đòi ngày vị trí độc tôn trên chính trường thì tất yếu bi kịch xảy ra và Lê Văn Thịnh đã bị loại khỏi vũ đài chính trị.

Dù bị triều đình kết án, rồi phao tin chuyện hoang đường, nhưng người dân vẫn không tin là sự thực. Sau khi Lê Văn Thịnh mất, người dân đã lập đền thờ và lưu truyền những tập tục riêng biệt trong lễ tế ông. Các vua triều đại sau truy tặng, phong thần nhiều lần. Việc ai đó tạc một pho tượng thân rắn, nhưng tư thế và móng vuốt của rồng, tự cắn xé thân mình, rồi chôn xuống đất, nơi là nhà ông ở, rồi là đền thờ ông, đã thể hiện rõ niềm tin vô tội của ông.  

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật